Kiểu dáng đáng chú ý nhất của Vista, Windows Aero, được xây dựng trên một cơ cấu desktop hợp nhất gọi là Trình điều quản Window Desktop. Windows Aero bắt đầu hỗ trợ cho một nền tảng đồ họa 3 chiều (Cơ cấu lật cửa sổ 3 chiều), hiệu ứng trong suốt, hiệu ứng gương, biểu trưng (thumbnails) động, các hoạt ảnh cho chuyển động cửa sổ, và những hiệu ứng khác, đồng thời được mong đợi bởi những dòng bo mạch xử lý đồ họa mới nhất và chủ đạo nhất. Để kích hoạt những chức năng đó, nội dung của hàng loạt cửa sổ được lưu trữ vào bộ nhớ video nhằm tạo thuận lợi cho sự chuyển động lật-xé trang tự do của các cửa sổ. Như vậy, Window Aero rõ ràng đòi hỏi phần cứng cao hơn so với những phiên bản tiền nhiệm của nó. Cấu hình yêu cầu tối thiểu là 128MB cho bo mạch đồ họa, còn phụ thuộc vào độ phân giải được sử dụng.
Windows Aero (bao gồm Cơ cấu lật cửa sổ 3 chiều) không có trong các phiên bản Starter và Home Basic. [3] [sửa] Windows Vista Standard
Chế độ này là một mức độ thay đổi của Windows Aero khi không có hiệu ứng gương, các hoạt ảnh cho chuyển động cửa sổ, và các hiệu ứng đồ họa tiên tiến khác như Cơ cấu lật cửa sổ 3 chiều. Cũng như Windows Aero, nó sử dụng Desktop Window Manager, và đại thể là cũng đòi hỏi phần cứng đồ họa tương tự Windows Aero. Đây là chế độ mặc định của phiên bản Windows Vista Home Basic. Phiên bản Starter Edition không hỗ trợ chế độ này. [sửa] Windows Vista Basic
Chế độ này bề ngoài tựa như diện mạo của Windows XP với các hiệu ứng hoạt cảnh phụ trợ như hiệu ứng tìm thấy trên thanh tiến trình. Nó không dùng tới Desktop Window Manager; và như vậy nó không có hiệu ứng trong suốt và trong mờ, các hoạt ảnh cho chuyển động cửa sổ, Cơ cấu lật cửa sổ 3 chiều hoặc bất cứ chức năng nào được cung cấp bởi Trình điều quản Window Desktop. Chế độ Basic không yêu cầu Windows Display Driver Model (WDDM) mới cho trình điểu khiển hiển thị, và yêu cầu phần cứng đồ họa tương tự Windows XP. Những máy tính với bo mạch đồ họa không đủ mạnh để chạy Windows Aero, đây là chế độ mặc định. [sửa] Windows Classic
Windows Classic khá giống Windows 2000 và Windows Server 2003, không sử dụng Desktop Window Manager và không đòi hỏi trình điều khiển WDDM. Như các phiên bản trước của Windows, kiểu diện mạo trực quan này hỗ trợ các tổ hợp/giản đồ màu với các lựa chọn cũng như thiết lập màu sắc. Windows Vista chứa đựng 6 tổ hợp/giản đồ màu sẵn có gồm bốn giản đồ tương phản cao và hai giản đồ của Windows 98 và Windows 2000. [sửa] Phiền toái từ Windows Vista
Nhiều người nâng cấp lên hệ điều hành Windows Vista đã gặp nhiều phiền toái với các trình điều khiển. Không những người sử dụng, mà cả các lãnh đạo của Micorsoft cũng gặp các phiền toái này[4] Bảo là nó phiền toái vì nó tốn nhiều tài nguyên máy và rối rắm hơn Windows XP.
Vista luôn chiếm tài nguyên lớn của các máy tính cài đặt hệ điều hành này. Khi không sử dụng bất kỳ trình ứng dụng nào, Vista vẫn làm cho CPU usage của máy tính báo đang chạy đến trên dưới 50%.[cần dẫn nguồn]
Tình trạng treo máy thường xuyên xảy ra khi dùng Vista, kể cả các máy đời mới với chip dual core 2Ghz.[cần dẫn nguồn]
Các ưu thế và tiến bộ mà Vista đem lại quá nhỏ so với những phiền toái mà nó mang lại cho người sử dụng nên nhiều người dùng đã chọn cách bỏ bản Vista để cài lại Windows XP.[5] [sửa] Các phiên bản
* Ultimate: Cung cấp tất cả chức năng của Vista * Home Premium: Phiên bản tại nhà, laptop, cung cấp nhiều chức năng cho giải trí, công việc tại nhà * Home Basic: Sử dụng những chức năng cơ bản như duyệt web, nghe nhạc, xem phim, ... * Business: Phù hợp với kinh doanh nhỏ * Enterprise: Phù hợp với kinh doanh lớn * Starter Editon: Dành cho máy tính cấu hình thấp